Đậu mùa khỉ là gì? Các công bố khoa học về Đậu mùa khỉ

Đậu Mùa Khỉ, còn được gọi là đậu cát, là một loại cây thân bò có hoa và quả màu đỏ tươi. Cây này là cây leo và thường được trồng như cây cảnh hoặc để làm bìa ch...

Đậu Mùa Khỉ, còn được gọi là đậu cát, là một loại cây thân bò có hoa và quả màu đỏ tươi. Cây này là cây leo và thường được trồng như cây cảnh hoặc để làm bìa che.
Đậu Mùa Khỉ (Abrus precatorius) là một loại cây thuộc họ Đậu (Fabaceae). Nó là một cây bản địa của vùng nhiệt đới châu Á và châu Phi, nhưng cũng được trồng rộng rãi ở nhiều khu vực khác trên toàn thế giới.

Đậu Mùa Khỉ là một cây leo có thể cao từ 3 đến 5 mét. Thân của nó thường gắn chặt vào cây chủ để leo lên. Lá của cây có 7 đến 15 lá chét hình mũi tên nhọn. Hoa của nó có màu hồng hoặc đỏ và thường mọc thành chùm ở ngọn. Quả của cây là hình cầu nhỏ, có màu đỏ tươi với đỏ đậm ở phần phía trên và có một bó sợi màu đen ở phía dưới.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng đậu Mùa Khỉ chứa một hợp chất độc gọi là abrin, có thể gây nguy hiểm khi tiếp xúc với da hoặc mắt, hoặc khi nuốt phải. Do đó, không nên tiếp xúc trực tiếp với cây này nếu không biết cách sử dụng an toàn.
Xin lỗi vì thông tin trước đó chưa đầy đủ. Đậu Mùa Khỉ không chỉ là một loại cây cảnh, mà còn có nhiều ứng dụng và ý nghĩa khác.

1. Trong y học: Mặc dù cây này có chứa hợp chất độc abrin, nhưng cũng được sử dụng trong y học dân gian. Những phần của cây như hạt, lá và rễ có thể được sử dụng với mục đích điều trị bệnh như sốt, viêm nhiễm, tắc nghẽn phổi, hôi miệng và tăng cường sức đề kháng. Tuy nhiên, việc sử dụng cây này phải được thực hiện chính xác và dưới sự chỉ định của chuyên gia y tế.

2. Sử dụng trang trí: Cây đậu Mùa Khỉ có hoa đẹp và màu sắc rực rỡ, nên thường được trồng làm cây cảnh để trang trí trong khu vườn hoặc sân vườn.

3. Sử dụng trong truyền thống và tín ngưỡng: Cây đậu Mùa Khỉ cũng có giá trị tín ngưỡng trong một số nền văn hóa và tôn giáo như Ấn Độ và Trung Quốc. Nó được sử dụng trong các nghi lễ tôn dưỡng và cầu nguyện.

4. Sử dụng trong ngành công nghiệp: Hạt của cây đậu Mùa Khỉ có trọng lượng nhẹ và đặc biệt quan trọng trong công nghiệp đo lường chính xác nhưng nhỏ gọn, ví dụ như trong lĩnh vực xây dựng, đo lường trọng lượng và chế tạo các thiết bị nhạy cảm.

Tuy nhiên, do hàm lượng abrin độc cao, việc sử dụng và tiếp xúc với cây đậu Mùa Khỉ phải được thực hiện cẩn thận và theo hướng dẫn từ các chuyên gia.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "đậu mùa khỉ":

ẢNH HƯỞNG CỦA MƯA ĐẦU MÙA TỚI ĐỘ DÀY QUANG HỌC SOL KHÍ TẠI BẠC LIÊU
Vietnam Journal of Earth Sciences - Tập 33 Số 1 - Trang 10-17 - 2011
Impact of rainfall in summer onseting monsoon on aerosol optical depth in Bac LieuImpact of rainfall in summer onseting monsoon on the Aerosol Optical Depth (hereafter AOD) and size distribution ofaerosols elements were evaluated in the case of the rainy season in 2003 based on hourly rainfall data in Bac Lieu andAOD data from Aerosol Robotic Network (AERONET). First, we specify the onset of summer monsoon over theSouthern Vietnam and the rainy days in the early rainfall season is also detected in 2003 from Bac Lieu rain gauge data.After that, effect of early season rainfall in 2003 on AOD and size distribution is evaluated by the decrease of AOD at500nm and the change of Angstrom parameters. Results show that the onset of the summer monsoon over the SouthernVietnam in 2003 is 4-May. At that time, we detected 3 rainy days from Bac Lieu rain gauge station data, it is 1, 3 and 4with the rainfall is 4, 7.5 and 5.5, respectively. The rains of early season rainfall in 2003 significantly reduced the aerosoloptical depth. After 3 rainy days, AOD at 500nm wavelength decreased from 0.4 to 0.1. The rain in early season rainfallalso changed size distribution of aerosols elements in the atmosphere. The aerosols elements have large size is sweptaway by the first rainy day. The β decreased from 0.23 (30 April) to 0.07 (3 May) and 0.04 (5 May). The difference ofAOD at 500nm between the first month of rainfall season and the last month of dry season in period 2003 - 2009 is0.025. The AOD average rainfall season and dry season is 0.29 and 0.19, respectively. The AOD in 500nm average offour dry months (Dec, Jan, Feb and Mar) is 0.29 and of rainy months (Jun, Jul, Aug, and Sep) is 0.19.
ẢNH HƯỞNG CỦA MƯA ĐẦU MÙA TỚI ĐỘ DÀY QUANG HỌC SOL KHÍ TẠI BẠC LIÊU
Vietnam Journal of Earth Sciences - Tập 33 Số 1 - Trang 10-17 - 2011
Impact of rainfall in summer onseting monsoon on aerosol optical depth in Bac LieuImpact of rainfall in summer onseting monsoon on the Aerosol Optical Depth (hereafter AOD) and size distribution ofaerosols elements were evaluated in the case of the rainy season in 2003 based on hourly rainfall data in Bac Lieu andAOD data from Aerosol Robotic Network (AERONET). First, we specify the onset of summer monsoon over theSouthern Vietnam and the rainy days in the early rainfall season is also detected in 2003 from Bac Lieu rain gauge data.After that, effect of early season rainfall in 2003 on AOD and size distribution is evaluated by the decrease of AOD at500nm and the change of Angstrom parameters. Results show that the onset of the summer monsoon over the SouthernVietnam in 2003 is 4-May. At that time, we detected 3 rainy days from Bac Lieu rain gauge station data, it is 1, 3 and 4with the rainfall is 4, 7.5 and 5.5, respectively. The rains of early season rainfall in 2003 significantly reduced the aerosoloptical depth. After 3 rainy days, AOD at 500nm wavelength decreased from 0.4 to 0.1. The rain in early season rainfallalso changed size distribution of aerosols elements in the atmosphere. The aerosols elements have large size is sweptaway by the first rainy day. The β decreased from 0.23 (30 April) to 0.07 (3 May) and 0.04 (5 May). The difference ofAOD at 500nm between the first month of rainfall season and the last month of dry season in period 2003 - 2009 is0.025. The AOD average rainfall season and dry season is 0.29 and 0.19, respectively. The AOD in 500nm average offour dry months (Dec, Jan, Feb and Mar) is 0.29 and of rainy months (Jun, Jul, Aug, and Sep) is 0.19.
KIẾN THỨC VỀ BỆNH ĐẬU MÙA KHỈ CỦA NGƯỜI BỆNH NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN LÊ VĂN THỊNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 1B - 2023
Nghiên cứu nhằm xác định tỷ lệ người bệnh ngoại trú tại Bệnh viện Lê Văn Thịnh có kiến thức tốt về bệnh đậu mùa khỉ và các yếu tố liên quan năm 2022. Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện từ tháng 7 đến tháng 9 năm 2022 tại Bệnh viện Lê Văn Thịnh, thành phố Hồ Chí Minh. Số liệu được thu thập thông qua bộ câu hỏi tự điền, với 17 câu hỏi đánh giá kiến thức về bệnh đậu mùa khỉ, với điểm cắt có ý nghĩa là 70% (trả lời 12/17 câu đúng sẽ được đánh giá có kiến thức tốt). Tổng số 330 người bệnh tham gia nghiên cứu, tuổi <50 tuổi chiếm 67,3%, giới nam chiếm đa số (54,9%). Tỷ lệ người bệnh có kiến thức tốt ghi nhận 56,1%. Nghiên cứu tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức với tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, bệnh kèm theo (tăng huyết áp) và nguồn thông tin tiếp cận (p<0,05). Tỷ lệ kiến thức chung tốt ở đối tượng này còn thấp, điều này cho thấy sự cần thiết phải có chương trình giáo dục sức khỏe để nâng cao kiến thức cho người dân trong phòng ngừa bệnh.
#đậu mùa khỉ #người bệnh #kiến thức #thành phố Hồ Chí Minh
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN KHỐI SỨC KHOẺ TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM VỀ BỆNH ĐẬU MÙA KHỈ NĂM 2022
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 64 Số 3 - 2023
Mục tiêu: Mô tả kiến thức, thái độ của sinh viên khối sức khỏe trường Đại học Đại Nam về bệnhđậu mùa khỉ năm 2022.Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang.Kết quả: Nghiên cứu được thực hiện trên 661 sinh viên của khoa Y, khoa Dược và khoa Điều dưỡngthuộc trường Đại học Đại Nam sử dụng bộ câu hỏi thiết kế sẵn để mô tả kiến thức và thái độ của sinhviên về bệnh đậu mùa khỉ. Kết quả cho thấy: Tỷ lệ đạt kiến thức về bệnh đậu mùa khỉ là 56,4%. Tỷlệ sinh viên có thái độ tích cực về bệnh đậu mùa khỉ là 52%.Kết luận: Tỷ lệ đạt kiến thức về bệnh đậu mùa khỉ cũng như tỷ lệ sinh viên có thái độ tích cực vềbệnh chiếm tỷ lệ thấp. Do đó, Ban giám hiệu nhà trường cần phải có những biện pháp tích cực và cụthể để góp phần nâng cao kiến thức, thái độ cho sinh viên về bệnh đậu mùa khỉ.
#Kiến thức và thái độ #đậu mùa khỉ.
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VỀ BỆNH ĐẬU MÙA KHỈ CỦA SINH VIÊN NGÀNH Y HỌC DỰ PHÒNG VÀ Y TẾ CÔNG CỘNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ NĂM 2023
Tạp chí Y Dược học Cần Thơ - Số 76 - Trang 112-119 - 2024
Đặt vấn đề: Bệnh đậu mùa khỉ (ĐMK) đã trở thành vấn đề Y tế công cộng toàn cầu, tuy nhiên tình hình kiến thức và thái độ về bệnh đậu mùa khỉ của sinh viên y dược còn hạn chế khi chỉ có 56,4% đối tượng được khảo sát có kiến thức đúng. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ kiến thức đúng, thái độ tích cực và một số yếu tố liên quan đến kiến thức đúng, thái độ tích cực về bệnh đậu mùa khỉ của sinh viên ngành Y học dự phòng và Y tế công cộng tại Trường Đại học Y Dược Cần Thơ, năm 2022. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 220 sinh viên bằng phương pháp chọn mẫu hệ thống. Kết quả: Tỷ lệ sinh viên có kiến thức đúng, thái độ tích cực về bệnh đậu mùa khỉ lần lượt là 80,5% và 68,2%. Có mối liên quan giữa yếu tố đi lâm sàng/cộng đồng, tham gia chống dịch hay hoạt động xã hội với kiến thức đúng về bệnh ĐMK (p<0,05). Có mối liên quan giữa ngành học, đi lâm sàng/cộng đồng, tham gia các câu lạc bộ và kiến thức với thái độ tích cực về bệnh ĐMK (p<0,05). Kết luận: Cần tăng cường phổ biến kiến thức về các bệnh truyền nhiễm nói chung và đậu mùa khỉ nói riêng đến sinh viên.
#kiến thức #thái độ #đậu mùa khỉ #sinh viên
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN PHÒNG CHỐNG BỆNH ĐẬU MÙA KHỈ CỦA NGƯỜI DÂN TẠI XÃ TÂN THÀNH,THÀNH PHỐ NGÃ BẢY, TỈNH HẬU GIANG NĂM 2023
Tạp chí Y Dược học Cần Thơ - Số 71 - Trang 132-140 - 2024
Đặt vấn đề: Bệnh đậu mùa khỉ (Monkeypox), là một bệnh do virus lây truyền từ người sang người. Đây là dịch bệnh mới ghi nhận tại nước ta, nhưng mầm bệnh đã xâm nhập trong cộng đồng. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ kiến thức, thái độ đúng và tìm hiểu một số yếu tố liên quan về phòng chống bệnh đậu mùa khỉ của người dân tại xã Tân Thành, thành phố Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang năm 2023. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế mô tả cắt ngang có phân tích trên 310 hộ gia đình tại xã Tân Thành, thành phố Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang năm 2023 với phương pháp phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi soạn sẵn. Kết quả: Tỷ lệ người dân có kiến thức và thái độ đúng về phòng chống bệnh đậu mùa khỉ lần lượt là 16,8% và 66,5%; có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức với tuổi, giới tính, học vấn, nghề nghiệp; từng nghe về đậu mùa khỉ; hành vi rửa tay sát khuẩn trước và sau khi ăn, sau khi đi vệ sinh; tham gia tiêm vaccine và thái độ (p<0,05); liên quan giữa thái độ với tuổi, học vấn, từng nghe về đậu mùa khỉ, tần suất đeo khẩu trang, tham gia tiêm vaccine, tham gia hoạt động tuyên truyền tại địa phương (p<0,05). Kết luận: Kiến thức, thái độ có ảnh hưởng đến việc phòng chống bệnh đậu mùa khỉ. Do đó, cần tăng cường công tác truyền thông về phòng chống bệnh đậu mùa khỉ, đặc biệt là nhóm đối tượng làm ruộng, vườn và trình độ học vấn thấp.
#đậu mùa khỉ #kiến thức #thái độ #cộng đồng
KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH PHÒNG, CHỐNG BỆNH ĐẬU MÙA KHỈ CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI TỈNH ĐẮK LẮK NĂM 2022
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 524 Số 1A - 2023
Bằng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang với việc thu thập dữ liệu trực tuyến và đăng liên kết khảo sát trên nhóm Google form. Chúng tôi đã thực hiện khảo sát 1.471 nhân viên y tế (NVYT) về kiến thức và thực hành phòng, chống bệnh Đậu mùa khỉ (ĐMK) và một số yếu tố liên quan tại tỉnh Đắk Lắk. Mẫu nghiên cứu có 27,3% là nam giới và 72,7% là nữ giới. Độ tuổi trung bình là 36,1 ± 8,4 tuổi. Dân tộc Kinh chiếm 77,2%. Có 87,6% NVYT không theo tôn giáo nào. Trình độ chuyên môn của NVYT: Bác sỹ (18,1%), điều dưỡng (31,5%), kỹ thuật viên (10,6%), nữ hộ sinh (8,7%) và chuyên ngành y tế khác (31,1%). 62,1% người tham gia nghiên cứu ở khu vực thành thị. 99,3% NVYT đã được nghe nói về bệnh ĐMK. Kênh tiếp nhận thông tin chủ yếu từ các nguồn: báo chí và truyền hình (98%), internet, mạng xã hội (98%); hàng xóm, người thân (70%) và loa phát thanh (69,1%). Điểm trung bình chung của kiến thức là 14,8±1,7/18 điểm. Có 60,8% NVYT tham gia nghiên cứu có kiến thức tốt phòng chống bệnh ĐMK. Có sự khác biệt kiến thức chung về phòng, chống bệnh ĐMK với trình độ chuyên môn (p<0,05). Điểm trung bình chung của thực hành là 6,4 ± 0,9/ 8 điểm. Có 55,9% NVYT tham gia nghiên cứu có thực hành đúng phòng chống bệnh ĐMK. Có sự khác biệt thực hành chung về phòng, chống bệnh ĐMK giữa NVYT nam và nữ (p = <0,05). Có mối tương quan thuận giữa kiến thức chung với thực hành chung (r=0,135, N=1.471, p<0,001) về phòng, chống bệnh ĐMK.
#Kiến thức #Thực hành #Đậu mùa khỉ #Đắk Lắk #Liên quan
Tổng số: 7   
  • 1